Top 4 Làng nghề truyền thống nổi tiếng nhất Quảng Ngãi nét độc đáo văn hóa

Thứ sáu - 02/05/2025 20:49
Top 4 Làng nghề truyền thống nổi tiếng nhất Quảng Ngãi nét độc đáo văn hóa  Quảng Ngãi – vùng đất giàu truyền thống văn hóa và làng nghề thủ công
Top 4 Làng nghề truyền thống nổi tiếng nhất Quảng Ngãi nét độc đáo văn hóa (2)
Top 4 Làng nghề truyền thống nổi tiếng nhất Quảng Ngãi nét độc đáo văn hóa (2)

Top 4 Làng nghề truyền thống nổi tiếng nhất Quảng Ngãi nét độc đáo văn hóa Quảng Ngãi – vùng đất giàu truyền thống văn hóa và làng nghề thủ công

Nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Nam Trung Bộ, Quảng Ngãi không chỉ nổi bật bởi vẻ đẹp thiên nhiên thơ mộng và con người hiền hậu mà còn được biết đến với nhiều làng nghề truyền thống độc đáo, góp phần làm phong phú thêm bản sắc văn hóa của vùng đất này.


Làng nghề đan lưới, đan rổ lồng ở Thuận Phước

Thôn Thuận Phước thuộc xã Bình Thuận, nằm ở phía đông huyện Bình Sơn, cách trung tâm huyện khoảng 15km về phía đông bắc.

Với diện tích tự nhiên khoảng 240 ha, Thuận Phước có 2 khu dân cư, 5 đội sản xuất, 203 hộ dân với 755 nhân khẩu. Trong đó, khoảng 2/3 dân số làm nông nghiệp, 1/3 còn lại gắn bó với nghề biển và các ngành nghề thủ công truyền thống.Top 4 Làng nghề truyền thống nổi tiếng nhất Quảng Ngãi nét độc đáo văn hóa (4)

Một trong những nghề nổi bật nơi đây là đan rổ lồng (hay còn gọi là rổ rỗi), phục vụ trực tiếp cho nhu cầu đánh bắt hải sản. Gọi là “rổ lồng” vì hình dáng của nó giống những cái lồng được xếp chồng lên nhau, còn tên gọi “rổ rỗi” xuất phát từ cụm từ “bạn rỗi”, chỉ những người không trực tiếp ra khơi nhưng đảm nhận việc sơ chế, vận chuyển hải sản. Rổ rỗi chủ yếu dùng để hấp cá, mực – một dụng cụ quen thuộc và tiện lợi đối với các bạn rỗi.

Nguyên liệu chính để đan rổ là tre bánh tẻ – không quá non nhưng cũng không quá già để đảm bảo độ dẻo và bền. Tre được chẻ thành nan dài khoảng 60 – 80cm, sau đó vót thành nẹp mảnh. Chỉ cần khoảng 28 nan và 2 cật tre, người thợ đã có thể hoàn thành một chiếc rổ trong vòng 30 phút. Nghề đan rổ không chỉ xuất phát từ nhu cầu thiết thực của người dân mà còn được gìn giữ như một phần không thể thiếu trong sinh hoạt ven biển.
Top 4 Làng nghề truyền thống nổi tiếng nhất Quảng Ngãi nét độc đáo văn hóa

Ngoài đan rổ, Thuận Phước còn nổi tiếng với nghề đan lưới truyền thống. Trước đây, ông cha ta tự tìm nguyên vật liệu để quay sợi và đan lưới thủ công. Ngày nay, nguyên liệu và dụng cụ đều sẵn có, người dân có thể đan nhiều loại lưới khác nhau như lưới tôm, lưới mực, lưới ghẹ, lưới chuồn... Mỗi loại lưới đều có kích thước và đường kính sợi (cước) khác nhau, phù hợp với mục đích đánh bắt cụ thể.

Quá trình đan lưới bắt đầu từ việc chọn cước, làm cữ bằng tre rồi gầy và đan lưới bằng ghim. Sau khi đan xong, lưới sẽ được rắn (kéo căng) bằng nước sôi để giữ độ thẳng và bền. Cuối cùng, người thợ lắp các phao và chì xen kẽ để khi thả lưới, lưới không bị hở và đảm bảo hiệu quả đánh bắt cao.

Tùy vào mùa đánh bắt, kỹ thuật đan và cách sử dụng lưới cũng có sự điều chỉnh. Ví dụ như vào mùa nước nổi (tháng 9 đến 11 âm lịch), ngư dân sẽ gắn thêm ống phao để nâng độ nổi của lưới, thích hợp đánh bắt cá tầng mặt như cá mực; còn các tháng khác thì dùng để bắt cá tầng sâu như cá hố, cá sòng...

Đan lưới là nghề truyền thống không chỉ giúp người dân vùng biển tăng thêm thu nhập mà còn giải quyết công ăn việc làm trong những lúc nông nhàn. Trong bối cảnh nghề nuôi trồng và khai thác thủy sản ngày càng được chú trọng, việc bảo tồn và phát triển các làng nghề như ở Thuận Phước là rất quan trọng. Nhiều ý kiến cho rằng, Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp nên có chương trình hỗ trợ vay vốn, thành lập các tổ hợp tác đan lưới để phát triển quy mô sản xuất và nâng cao hiệu quả kinh tế. Hiện nay, các sản phẩm thủ công nơi đây không chỉ được tiêu thụ tại địa phương mà còn vươn ra các tỉnh ven biển khác như Bình Định, Ninh Thuận, Vũng Tàu, Côn Đảo, Phú Quốc, Hải Phòng...


Nón lá Chợ Đình – niềm tự hào của Tịnh Bình

Chợ Đình thuộc xã Tịnh Bình, huyện Sơn Tịnh, từ lâu đã nổi tiếng là nơi buôn bán khoai sắn và đặc biệt là nghề chằm nón lá.

Sở dĩ gọi là “nón lá Chợ Đình” vì các sản phẩm nón được các phụ nữ khéo tay tại Tịnh Bình và vùng lân cận chằm nên, sau đó tập kết và bày bán tại chợ Đình, rồi từ đây phân phối đi khắp các chợ trong và ngoài tỉnh.

Theo lời kể của các bậc cao niên, nghề chằm nón lá xuất hiện ở Tịnh Bình vào cuối thế kỷ 19. Người có công mang nghề về truyền dạy cho dân làng là cụ Bính, quê ở làng Hoài Phong, xã Tịnh Hiệp. Cụ là người thích giao du, học hỏi, sau khi học được nghề từ nơi xa, đã trở về quê hương và dạy lại cho bà con.

Từ đó đến nay, nghề chằm nón không chỉ duy trì mà còn trở thành nguồn thu nhập ổn định cho nhiều hộ dân nơi đây, đồng thời góp phần bảo tồn nét đẹp truyền thống của người phụ nữ miền Trung.
Top 4 Làng nghề truyền thống nổi tiếng nhất Quảng Ngãi nét độc đáo văn hóa

Nghề chằm nón ở Chợ Đình – Tịnh Bình

Tuy là nơi truyền nghề đầu tiên, nhưng do Hoài Phong đất rộng người thưa, thời gian nông nhàn không nhiều nên người dân không mấy mặn mà với nghề chằm nón. Vì vậy, cụ Bính đã truyền nghề cho quê ngoại của mình là làng Vĩnh Lộc, nay thuộc thôn Bình Nam, xã Tịnh Bình. Nghề chằm nón nhanh chóng phát triển mạnh ở Vĩnh Lộc và lan rộng ra khắp các thôn trong xã, cũng như các làng lân cận thuộc ba xã Tịnh Sơn, Tịnh Thọ, Tịnh Hà.

Vào khoảng thập niên 1930, cụ Tuân – người thợ chằm nón nổi tiếng nhất Vĩnh Lộc – đã mang sản phẩm nón lá đi dự hội thi ở tỉnh Quảng Ngãi và giành được giải nhì. Từ đó, nón lá Chợ Đình nổi tiếng khắp nơi, được người tiêu dùng ưa chuộng, chiếm lĩnh thị trường trong tỉnh, vượt trội hơn nón Huế và nón chợ Chùa (Quảng Nam), dần vươn đến các tỉnh phía Nam.Top 4 Làng nghề truyền thống nổi tiếng nhất Quảng Ngãi nét độc đáo văn hóa

Theo lời kể của người lớn tuổi trong làng, vào thời điểm hưng thịnh, gần như toàn bộ các hộ dân ở Vĩnh Lộc đều làm nghề chằm nón. Ở những thôn khác, nghề này cũng chiếm tỷ lệ trên 50% số hộ dân. Đến những năm 1960, chiến tranh xảy ra, làng quê bị tàn phá, người làm nón rời đi khắp nơi để mưu sinh, nhưng vẫn mang theo nghề truyền thống để nuôi sống bản thân và gia đình.

Sau ngày đất nước thống nhất, Chợ Đình lại trở nên sôi động, nghề chằm nón phục hồi và phát triển. Chợ không bán nón lẻ vì hầu như nhà nào ở Tịnh Bình cũng có thể tự chằm nón để dùng. Những người buôn nón tập trung về chợ từ sớm, các gia đình mang nón ra bán theo từng “cây” (bó) để tiện vận chuyển đến các chợ trong và ngoài tỉnh.

Về nguyên liệu và công cụ làm nón, nón Chợ Đình tương đồng với nón Huế, nón Nghệ hay nón Quảng Nam. Tre được dùng để vót làm tuyến – khung tròn của nón; còn lá nón được thu hái từ vùng núi phía Tây. Công cụ bao gồm bộ kèo 20 rẽ, rựa vót tre, dụng cụ ủi lá, kim khâu…

Quy trình chằm nón bắt đầu bằng việc vót tuyến, ủi lá, sau đó đặt tuyến lên kèo, sắp xếp và chắp lá rồi dùng kim khâu cố định từng lớp lá lên tuyến. Khi hoàn thành, chiếc nón được cắt bỏ phần lá thừa và chần hai vành tuyến cuối cùng, gọi là “nức”.

Một chiếc nón chuẩn phải có 20 tuyến để vành rộng, không làm nước mưa rơi vào người khi đội. Nón chằm ba lớp lá: hai lớp ngoài là lá non vừa, lớp trong là lá già. Để nón bền và đẹp, người thợ phủ nhiều lớp dầu thông bên ngoài, bên trong thì kiềm bốn đố bằng tre, đỉnh nón khâu thêm chóp sòi để cố định.

Nếu như nón Huế nổi bật với vẻ mềm mại, nhẹ nhàng thì nón Chợ Đình lại được yêu thích nhờ độ bền chắc, thích hợp với khí hậu nắng mưa khắc nghiệt. Điều này có được nhờ tre đất cát có thớ chắc, sợi dai; đường khâu khít, đều, cùng với kỹ thuật kiềm đố, ép sòi tinh tế.

Trước năm 1996, mỗi ngày có trên một ngàn chiếc nón Chợ Đình được tiêu thụ rộng rãi. Tuy nhiên vài năm gần đây, số lượng nón làm ra giảm dần dù nhu cầu không hề giảm. Nguyên nhân là do thu nhập từ nghề thấp (khoảng 12.000 đồng một công vào năm 2001), người lao động bỏ nghề, chuyển sang các tỉnh phía Nam và Tây Nguyên tìm việc khác có thu nhập cao hơn.

Hiện nay, người duy trì nghề chằm nón chủ yếu là các cụ cao tuổi và các em học sinh. Nghề chằm nón vốn không cần vốn nhiều, chỉ cần sự khéo tay, biết tranh thủ thời gian rảnh rỗi của các thành viên trong gia đình. Tịnh Bình là vùng đất cát, thường bị ngập lụt vào mùa mưa nên trong thời gian đó, cả nhà lại quây quần chằm nón để cải thiện thu nhập.

Ngày xưa, đến Tịnh Bình vào ban ngày có thể thấy sân nhà nào cũng phơi nón trắng. Ban đêm, thiếu nữ mang khung nón ra sân rộng để chằm nón và cùng nhau hát giao duyên. Giữ gìn và phát triển nghề chằm nón không chỉ là duy trì sinh kế cho người dân mà còn là giữ lại một phần ký ức đẹp đẽ của làng quê xưa.

Nghề làm bánh tráng ở Phú Châu – Một hướng thoát nghèo bền vững

Phú Châu là một thôn thuộc xã Hành Đức, huyện Nghĩa Hành. Đến cuối năm 2002, toàn thôn có 215 hộ với 940 nhân khẩu, phần lớn sinh sống nhờ vào nghề nông, chủ yếu là trồng lúa nước. Ngoài ra, người dân còn kết hợp làm thêm các nghề thủ công như đan lát, chẻ đá, thợ nề, thợ mộc... Khoảng hơn mười năm trở lại đây, nghề làm bánh tráng nổi lên như một nghề phụ mang lại thu nhập đáng kể cho nhiều gia đình, góp phần quan trọng trong việc xóa đói giảm nghèo và nâng cao mức sống tại địa phương.Top 4 Làng nghề truyền thống nổi tiếng nhất Quảng Ngãi nét độc đáo văn hóa (1)
Top 4 Làng nghề truyền thống nổi tiếng nhất Quảng Ngãi nét độc đáo văn hóa

Bánh tráng là món ăn không thể thiếu trong đời sống ẩm thực của người Quảng Ngãi. Nó không chỉ là thực phẩm thường ngày mà còn là nguyên liệu phổ biến để chế biến các món ăn khác nhau – từ bữa cơm giản dị đến các buổi tiệc, giỗ chạp hay chiêu đãi khách quý. Buổi sáng, mỗi người có thể dùng bánh tráng cuốn làm điểm tâm; bánh tráng đập được chia sẻ vào giữa buổi hoặc xế trưa. Bánh tráng mỏng dùng gói ram bắp, ram nhân thịt hoặc tôm trong các dịp lễ, cưới hỏi. Bánh dày, rắc mè, thường được nướng giòn để ăn kèm với hến xào, cá chiên trứng, bún, cháo lòng… Một số người còn nhúng bánh tráng nướng qua nước lạnh rồi cuốn rau muống hoặc cá chuồn hấp – món ăn dân dã nhưng rất được yêu thích. Đặc biệt, trong mâm cúng tổ tiên ở mọi vùng quê Quảng Ngãi, chiếc bánh tráng tròn nướng giòn luôn hiện diện như một biểu tượng thiêng liêng. Khi mời nhau dùng cơm sau lễ cúng, gia chủ thường bẻ bánh mời khách trước – một nghi lễ đơn sơ nhưng đậm tính nhân văn. Người Quảng Ngãi coi bánh tráng là vật phẩm quý, bởi nó được làm từ hạt gạo – hạt ngọc của đất – lại mang hình tròn, biểu tượng của trời.

Quy trình làm bánh tráng ở Phú Châu cũng không khác nhiều so với các nơi khác trong tỉnh. Người dân sử dụng lò đất hoặc gạch, đốt bằng bã trấu. Bộ dụng cụ gồm nồi đồng bảy, cối đá xay gạo thành bột lỏng, vài chiếc xoong đựng bột, gáo tráng bánh, đũa tre mỏng để vớt bánh, cùng với những phên liếp bằng tre để phơi bánh ngoài nắng. Chi phí đầu tư cho toàn bộ dụng cụ này vào thời điểm năm 2003 chưa đến một triệu đồng. Gạo dùng để làm bánh có sẵn trong nhà, hoặc có thể mua chịu từ các chị hàng xáo trong làng theo kiểu “xấp mối” – bán bánh để trả gạo lần trước, rồi nhận gạo cho lần sau. Bánh tráng làm ra có thể bán tại lò, bỏ mối cho quán ăn, nhà hàng, bán lẻ cho người bán hàng rong, hoặc mang ra chợ. Vào các dịp lễ, tết, cưới hỏi, nhiều người đến đặt bánh tận lò để chọn theo ý. Vì vậy, bánh tráng là sản phẩm thủ công luôn có đầu ra ổn định. Với những người mới vào nghề, dù bánh chưa đẹp vẫn có thể sử dụng trong gia đình, không sợ lãng phí.

Mỗi lò bánh chỉ cần hai người làm. Người chính ngồi bên lò, khuấy bột, pha loãng rồi dùng gáo nhỏ múc lên mặt nồi hấp. Dùng đáy gáo xoay tròn để dàn đều bánh, đậy nắp chờ bánh chín. Trong lúc đó, người thợ tranh thủ cho thêm trấu vào lò và tiếp tục pha bột. Khi bánh chín, nắp mở ra, dùng đôi que tre mỏng luồn dưới bánh, gấp đôi, đưa ra liếp tre rồi lật lại cho bánh trở về hình tròn.

Người phụ – thường là trẻ em hoặc người già – giúp sửa bánh cho đều, mang liếp ra phơi. Họ cũng giúp chuẩn bị bột, cho trấu vào lò, làm nước chấm và bánh đập cho khách mua tại chỗ hoặc mang về.

Hầu hết các lò chỉ làm vào những ngày nắng, từ sáng đến đầu giờ chiều. Buổi sáng sớm thường dùng để xay bột. Buổi chiều, bánh đã phơi khô sẽ được thu gom, xếp theo chồng 50–100 chiếc, buộc lại để bán. Việc ngâm gạo thường được tranh thủ làm vào buổi chiều.

Trung bình mỗi ngày một lò bánh sử dụng 30kg gạo, làm ra khoảng 500 chiếc bánh tráng dày; nếu làm bánh mỏng thì chỉ dùng 20kg gạo nhưng số bánh có thể lên tới hơn 400 chiếc. Tuy nhiên, bánh mỏng đòi hỏi kỹ thuật khéo léo hơn nên chỉ những người có kinh nghiệm mới làm tốt.

Sau khi trừ chi phí, thu nhập bình quân mỗi ngày từ một lò bánh là 50.000–60.000 đồng (tính theo giá năm 2003). Con số tuy không cao, nhưng ở nông thôn thì rất đáng kể và đủ giúp cải thiện đời sống gia đình. Bên cạnh đó, nước thải và cặn bột từ lò còn được tận dụng để nuôi heo, tăng thêm nguồn thu.

Chỉ cần giữ vững nghề, có đầu ra ổn định, thì chỉ sau vài năm, gia đình làm bánh tráng đã có thể cải thiện đáng kể về kinh tế. Trong số các nghề thủ công ở Quảng Ngãi – nếu loại trừ các nghề cần nhiều bí quyết như làm mạch nha, đường phèn, rèn nông cụ… – thì làm bánh tráng là một trong những nghề có thu nhập ổn định và dễ học nhất.

Ở một làng thuần nông như Phú Châu, nơi đất ít, dân đông, mức sống còn hạn chế, việc hơn 30 hộ chọn làm bánh tráng để cải thiện thu nhập là một lựa chọn hoàn toàn hợp lý và mang lại hiệu quả rõ rệt.

Nguồn tin: langngheviet.com .vn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Bình luận của bạn về bài viết này
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây